Ðề: Tường thuật trực tiếp một "trận dịch thuật"
3. Tác động của các dự án thủy điện tại Trung Quốc
* Chú thích : Dựa vào tổng số 90,000 MCM (triệu mét khối) Vân Nam đóng góp hàng năm Thủy lợi : Tổng số thể tích họat động của các đập thủy điện Trung Quốc dự trù xây tại Vân Nam (thể tich nước dùng vào việc sản xuất điện) sẽ lên tới 48 BCM. Trung Quốc sẽ tạm hãm lại 53% tổng số lưu lượng (90 BCM của Vân Nam thường chảy vào Mekong.
- Chuyên chở phù sa : Những đập thủy điện trên sẽ chận số phù sa Trung Quốc góp vào Mekong tại các hồ chứa tại Vân Nam. Tổng số phù sa mất đi sẽ là 125 triệu tấn/năm hay 50% tổng số trọng tải của toàn thể lưu vực.
- Ô nhiễm kỹ nghệ : Vùng cao nguyên Vân Nam vốn rất nổi tiếng là có tích trữ nhiều quặng mỏ kim loại và than đá và là bản doanh của Tổng Công ty Luyện Kim Vân Nam. Công ty này có thế lực lớn khó đối phó; nhu cầu điện năng của họ sẽ không
dễ nhân nhượng và chất thải kỹ nghệ của họ sẽ theo Mekong mà ra biển.
- Ngư nghiệp : Dân cư tại Thái và Lào đã coi Manwan là nguyên nhân chính làm mực nước sông hạ xuống thấp nhất và thu hoạch ngư nghiệp sút giảm nhiều nhất trong trí nhớ cả đời họ Thái Lan đã chỉ bắt được 69 con cá trê khổng lồ Pla Buek vào năm 1990, và năm ngoái 1998 chỉ còn bắt được có một con Pla Buek mà thôi. Họ cho rằng đập Manwan đã ngăn không cho loài cá này lội về thượng nguồn đẻ trứng sinh con như xưa nữa. Khi hỏi ý kiến về những đập sắp xây, ông Pakprom, Chủ tịch của Nhóm Bảo vệ sông Songkhram, đã tóm gọn quan điển của nhóm này rằng : "Xin thôi xây thêm đập!" [14]
- An ninh quốc gia và môi trường : Những đập thủy điện Vân Nam sẽ khiến Trung Quốc có một khả năng đáng quan ngại : Có thể gây lụt lội hay hạn hán cho hạ nguồn bất cứ mùa nào và lúc nào. Trung Quốc sẽ có trong tay khả năng quyết định vận mạng của 60 triệu dân sống trong bốn quốc gia : Lào, Thái, Cam Bốt và Việt Nam.
+ Thí dụ : Nếu Trung Quốc ngừng chạy máy điện vài ngày trên Vân Nam vào mùa khô, họ có thể gây ra hạn hán nặng nề cho CTSCL. Nếu chất thải kỹ nghệ từ Vân Nam chảy vào không kiểm soát, họ sẽ biến sông Mekong thành rạch nước thải, Hồ Tonle Sap thành hồ chứa chất thải và CTSCL thành một bãi thấm hút chất thải.
4. Tác động của các dự án thủy điện trên các phụ lưu Mekong
Trong khoảng 1991-1994, Thái Lan đã hoàn thành xong một loạt các đập trên các phụ lưu Mekong như: sông Kok, Mun, Lam Di Moi, Chi, Pong and Huay Mong. Bảng 4 liệt kê tổng số 24 đập đã hoàn tất lẫn đang dự trù sẽ xây trên các phụ lưu Mekong tại Lào, Thái, Cam Bốt và Việt Nam. Sau đây là ước lượng các hệ quả của chúng :
Tổng số nước có thể sẽ bị tạm giữ lại các hồ chứa do 24 con đập nêu trên là 78.6 BCM hay 67% của 117 BCM tổng số lưu lượng do các vùng này đóng góp vào sông Mekong. Tổng số phù sa có thể sẽ bị các đập trên chận lại là 60 triệu tấn/năm.
Sự di chuyển sinh hoạt và tồn tại của các loài cá trên Mekong vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu rất hấp dẫn cho các khoa học gia thế giới. Mỗi khi chuyển mùa người ta quan sát thấy được sự thay đổi toàn bộ các giống cá hiện diện trên sông và không biết chúng đã bỏ đi nơi đâu và đã từ đâu đến. Những đập thủy điện này sẽ hủy hoại sinh hoạt của chúng. Đập Pak Mun đã gây giảm sút 50% thu hoạch ngư sản. Đập Theun Hinboun đã gây tuyệt chủng một số loài cá và giảm 30-90% một số khác chỉ trong vòng hai tháng sau khi con đập hoàn tất [14]. Năm 1994, thu hoạch ngư sản từ Tonle Sap đã giảm mất 50% cùng tỷ lệ với sự hủy hoại 50% diện tích rừng ngập nước.
Ủy Hội Sông Mekong (MRC) đã nghiên cứu nhiều địa điểm xây đập thủy điện kiểu "run-of-river" trên dòng chính trong vùng hạ lưu Mekong và 9 địa điểm đã được cho là có triển vọng kinh tế và tác hại không trầm trọng. MRC đã bị chỉ trích nặng nề bởi tổ chức International Rivers Netrwork về những thiếu sót trong việc nghiên cứu khả thị Tuy MRC chưa thực hiện dự án nào nhưng MRC cũng không chính thức tuyên bố ý định bãi bỏ dự án đó.
Trên lý thuyết, loại đập "run-of-river" không cần đến hồ chứa để tích trữ nước theo quy tắc thông thường. Thực tế thì những đập run-of-river dự trù xây trên Mekong vẫn cần đến một kiến trúc chận ngang sông cao trung bình đến 35 mét để gắn turbine. Việc nâng cao mực nước như thế tại 9 địa điểm dọc theo 2,400 km sẽ tạo ra các cơ hội để Thái Lan chuyển nước ra dùng không thể nào MRC theo dõi sát hay ngăn cản gì họ được.
6. Tác động của những dự án chuyển nước tại Thái Lan
Bảng 6. Những dự án chuyển nước tại Thái Lan (Watershed, Nov. 98)
.................
hate tables , then cut
.................
Thỏa Ước 1995 giữa bốn nước hạ nguồn Mekong đã xóa bỏ trở ngại là phải có sự đồng thuận hoàn toàn của tất cả các nước trên bất cứ dự án nào mới được đem ra thực hiện. Thái Lan đã tiến hành những dự án chuyển nước tham vọng nhất châu Á. Dự án Khong-Chi-Mun bắt đầu năm 1990, có một ngân khoản khổng lồ là $US 61.6 tỉ ngang hàng với dự án Three Gorges Dam trên sông Dương Tử. Khối lượng nước Thái Lan sẽ chuyển khỏi Mekong là 8.8 BCM.
7. Kết Luận
Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên để mưu cầu phúc lợi cho dân chúng của các quốc gia Mekong phải được tôn trọng; nhưng điều đó không có nghĩa là sẽ phó mặc cho họ khai thác thiên nhiên bừa bãi và để cho họ bất chấp quyền lợi sống còn của những dân cư lân bang trong cùng hệ sinh thái. Đối với một dòng sông quốc tế và thiêng liêng như Mekong, tất cả lợi hại phải được phổ biến công khai và gía trị phải thẩm định trên căn bản toàn thể lưu vực.
Dân cư của Cam Bốt và Việt Nam vẫn phải nhờ vào những cánh rừng ngập nước theo mùa nơi cá trở về sinh sản hàng năm để bắt lấy, đó là nguồn thực phẩm protein chính yếu vẫn nuôi sống họ. Họ vẫn cần nhiều nước để trồng lúa, và lũ lụt dể chống acid, chống nhiễm mặn và cần phù sa để bảo vệ duyên hải khỏi nạn sói mòn.
Nhà hải dương học TS Michael Rozengurt đã điều trần tại Quốc Hội Ottawa vào năm 1994 rằng mức độ điều hòa (hay ngăn chận) lưu lượng tối đa của một dòng sông là 25% nếu muốn ngư sinh không bị hủy hoại [13]. Như thế, sự ngăn chận 53% nước sông tại Trung Quốc và 67% tại Lào chắn chắn sẽ đi đến sự hủy hoại vĩnh viễn và hoàn toàn chế độ thủy vận và ngư sinh hiện thời của sông Mekong.
Nếu tất cả các dự án khai thác Mekong hoàn tất, 75% tổng số phù sa của Mekong sẽ bị ngăn lại ở hồ chứa, 126 BCM nước sông sẽ bị giữ lại thượng nguồn, gần 9 BCM sẽ bị chuyển ra tại Thái, toàn bộ nền ngư nghiệp tại Biển Hồ Tonle Sap và Cửu Long sẽ không còn nữa, cả Châu Thổ Mekong sẽ thành một cánh đồng chua, nước ngầm chỉ còn là những dòng sông mặn, và duyên hải sẽ rã tan dần trước sóng vỗ của biển Đông. Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ đã đánh mất nền ngư nghiệp Châu Thổ sông Colorado, Ai Cập đã mất Châu Thổ sông Nile, Mekong là một dòng sông lớn cuối cùng ít bị chặn hãm và có thể là dòng sông lớn đầu tiên con người giữ được để khỏi rơi vào số phận này trên mặt địa cầu. Vì thế, nhiệm vụ bảo vệ Mekong không phải chỉ là của dân cư Châu Thổ, mà còn là của cả Lưu Vực (DX : khu vực) và cả thế giới.
Dân cư lưu vực Mekong đã phải gánh chịu liên tục những tai họa trầm kha suốt cả Thế Kỷ này rồi. Đáng buồn hơn thế nữa là ngày nay trong hòa bình, "giỏ cá" của dân Cam Bốt và "bát cơm" của dân Việt Nam lại có nguy cơ không còn giữ nguyên được nữa. Nhưng điều này chỉ xảy ra được nếu không ai làm gì trước những nguy cơ cho họ. Chúng ta có một cơ hội lịch sử trước thềm Thế Kỷ 21 : là cùng nhau bảo vệ kho tàng sinh học phong phú thứ hai của địa cầu -sông Mekong- khỏi rơi vào hiểm họa phải trở thành nạn nhân của thủy điện và khai thác nước. Chúng ta còn giúp phần bảo vệ nguồn thực phẩm an toàn và sinh kế cho 100 triệu dân cư nghèo nhất hoàn cầu khỏi cảnh diệt vong. "Tuyên Ngôn Sông Mekong 1999" sẽ là thông điệp mang hy vọng không những cho cho dân cư Mekong mà cho các thế hệ mai sau của cả thế giới.
Tài Liệu Tham Khảo
[1] Steve Rothert: Lessons Unlearned: Damming the Mekong River,
International Rivers Network, Working Paper 6, October 1995. p. 8
[2] Steve Rothert: Lessons Unlearned: Damming the Mekong River,
International Rivers Network, Working Paper 6, October 1995. p. 14
[3] To Phuc Tuong, An Overview of Water Management of Acid Sulphate
Soils, Selected Papers of the HCM City Symposium on Acid Sulphate
Soils, 1992, p. 274
[4] Le Quang Tri et al, Present Land Use as Basis for Land Evaluation
in two Mekong Delta Districts, 1992, p.323
[5] Ropelewski C. F., Reply to Long Pham's Enquiry on Drought in
Vietnam, International Research Institute, 1999
[6] http://irịucsd.edu/forecast/net_asmt/, IRI Net Assessment Forcast
[7] http://www.nnic.noaạgov:80/prodycts/...ummaries/97_3/,
Special Climate Smmary 97/3, NOAA [8] Tuong et al, (Le Quang Tri)
Salinity Intrusion in the Mekong Delta, 1991, p. 23
[9] Nguyen Thanh Tin, Some Characteristics of Water Quality in the
Mekong Delta, p 1
[10] Mai Thanh Truyet et al, Arsenic Pollution: Can it happen to Mekong
Delta, MekongForum, 1999
[11] Pickardt W., Reply to Long Pham's Enquiry on Vietnam Water Data,
UNICEF Hanoi Office, Jan.1999.
[12] Chapman ẸC. and He Daming, Downstream Implications of Chinás
Dams on Lancang Jiang, Monash Asia Institute, 1996 p.18
[13] Riozengurt M., The Demise of Fisheries Due to Large Dams and
Electric Reservoirs, Expert Testimony at Ottawa Congress on June 6,
1994.
[14] Watershed, Volume 4. March - June 1999, p. 10,13 and 30.
[15] Mekong Secretariat, Mekong Mainstream Run-of-River Hydropower,
Executive Summary, 1994
source: http://www.phu-tho.com/community/ind...ay;threadid=94
3. Tác động của các dự án thủy điện tại Trung Quốc
* Chú thích : Dựa vào tổng số 90,000 MCM (triệu mét khối) Vân Nam đóng góp hàng năm Thủy lợi : Tổng số thể tích họat động của các đập thủy điện Trung Quốc dự trù xây tại Vân Nam (thể tich nước dùng vào việc sản xuất điện) sẽ lên tới 48 BCM. Trung Quốc sẽ tạm hãm lại 53% tổng số lưu lượng (90 BCM của Vân Nam thường chảy vào Mekong.
- Chuyên chở phù sa : Những đập thủy điện trên sẽ chận số phù sa Trung Quốc góp vào Mekong tại các hồ chứa tại Vân Nam. Tổng số phù sa mất đi sẽ là 125 triệu tấn/năm hay 50% tổng số trọng tải của toàn thể lưu vực.
- Ô nhiễm kỹ nghệ : Vùng cao nguyên Vân Nam vốn rất nổi tiếng là có tích trữ nhiều quặng mỏ kim loại và than đá và là bản doanh của Tổng Công ty Luyện Kim Vân Nam. Công ty này có thế lực lớn khó đối phó; nhu cầu điện năng của họ sẽ không
dễ nhân nhượng và chất thải kỹ nghệ của họ sẽ theo Mekong mà ra biển.
- Ngư nghiệp : Dân cư tại Thái và Lào đã coi Manwan là nguyên nhân chính làm mực nước sông hạ xuống thấp nhất và thu hoạch ngư nghiệp sút giảm nhiều nhất trong trí nhớ cả đời họ Thái Lan đã chỉ bắt được 69 con cá trê khổng lồ Pla Buek vào năm 1990, và năm ngoái 1998 chỉ còn bắt được có một con Pla Buek mà thôi. Họ cho rằng đập Manwan đã ngăn không cho loài cá này lội về thượng nguồn đẻ trứng sinh con như xưa nữa. Khi hỏi ý kiến về những đập sắp xây, ông Pakprom, Chủ tịch của Nhóm Bảo vệ sông Songkhram, đã tóm gọn quan điển của nhóm này rằng : "Xin thôi xây thêm đập!" [14]
- An ninh quốc gia và môi trường : Những đập thủy điện Vân Nam sẽ khiến Trung Quốc có một khả năng đáng quan ngại : Có thể gây lụt lội hay hạn hán cho hạ nguồn bất cứ mùa nào và lúc nào. Trung Quốc sẽ có trong tay khả năng quyết định vận mạng của 60 triệu dân sống trong bốn quốc gia : Lào, Thái, Cam Bốt và Việt Nam.
+ Thí dụ : Nếu Trung Quốc ngừng chạy máy điện vài ngày trên Vân Nam vào mùa khô, họ có thể gây ra hạn hán nặng nề cho CTSCL. Nếu chất thải kỹ nghệ từ Vân Nam chảy vào không kiểm soát, họ sẽ biến sông Mekong thành rạch nước thải, Hồ Tonle Sap thành hồ chứa chất thải và CTSCL thành một bãi thấm hút chất thải.
4. Tác động của các dự án thủy điện trên các phụ lưu Mekong
Trong khoảng 1991-1994, Thái Lan đã hoàn thành xong một loạt các đập trên các phụ lưu Mekong như: sông Kok, Mun, Lam Di Moi, Chi, Pong and Huay Mong. Bảng 4 liệt kê tổng số 24 đập đã hoàn tất lẫn đang dự trù sẽ xây trên các phụ lưu Mekong tại Lào, Thái, Cam Bốt và Việt Nam. Sau đây là ước lượng các hệ quả của chúng :
Tổng số nước có thể sẽ bị tạm giữ lại các hồ chứa do 24 con đập nêu trên là 78.6 BCM hay 67% của 117 BCM tổng số lưu lượng do các vùng này đóng góp vào sông Mekong. Tổng số phù sa có thể sẽ bị các đập trên chận lại là 60 triệu tấn/năm.
Sự di chuyển sinh hoạt và tồn tại của các loài cá trên Mekong vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu rất hấp dẫn cho các khoa học gia thế giới. Mỗi khi chuyển mùa người ta quan sát thấy được sự thay đổi toàn bộ các giống cá hiện diện trên sông và không biết chúng đã bỏ đi nơi đâu và đã từ đâu đến. Những đập thủy điện này sẽ hủy hoại sinh hoạt của chúng. Đập Pak Mun đã gây giảm sút 50% thu hoạch ngư sản. Đập Theun Hinboun đã gây tuyệt chủng một số loài cá và giảm 30-90% một số khác chỉ trong vòng hai tháng sau khi con đập hoàn tất [14]. Năm 1994, thu hoạch ngư sản từ Tonle Sap đã giảm mất 50% cùng tỷ lệ với sự hủy hoại 50% diện tích rừng ngập nước.
Ủy Hội Sông Mekong (MRC) đã nghiên cứu nhiều địa điểm xây đập thủy điện kiểu "run-of-river" trên dòng chính trong vùng hạ lưu Mekong và 9 địa điểm đã được cho là có triển vọng kinh tế và tác hại không trầm trọng. MRC đã bị chỉ trích nặng nề bởi tổ chức International Rivers Netrwork về những thiếu sót trong việc nghiên cứu khả thị Tuy MRC chưa thực hiện dự án nào nhưng MRC cũng không chính thức tuyên bố ý định bãi bỏ dự án đó.
Trên lý thuyết, loại đập "run-of-river" không cần đến hồ chứa để tích trữ nước theo quy tắc thông thường. Thực tế thì những đập run-of-river dự trù xây trên Mekong vẫn cần đến một kiến trúc chận ngang sông cao trung bình đến 35 mét để gắn turbine. Việc nâng cao mực nước như thế tại 9 địa điểm dọc theo 2,400 km sẽ tạo ra các cơ hội để Thái Lan chuyển nước ra dùng không thể nào MRC theo dõi sát hay ngăn cản gì họ được.
6. Tác động của những dự án chuyển nước tại Thái Lan
Bảng 6. Những dự án chuyển nước tại Thái Lan (Watershed, Nov. 98)
.................
hate tables , then cut
.................
Thỏa Ước 1995 giữa bốn nước hạ nguồn Mekong đã xóa bỏ trở ngại là phải có sự đồng thuận hoàn toàn của tất cả các nước trên bất cứ dự án nào mới được đem ra thực hiện. Thái Lan đã tiến hành những dự án chuyển nước tham vọng nhất châu Á. Dự án Khong-Chi-Mun bắt đầu năm 1990, có một ngân khoản khổng lồ là $US 61.6 tỉ ngang hàng với dự án Three Gorges Dam trên sông Dương Tử. Khối lượng nước Thái Lan sẽ chuyển khỏi Mekong là 8.8 BCM.
7. Kết Luận
Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên để mưu cầu phúc lợi cho dân chúng của các quốc gia Mekong phải được tôn trọng; nhưng điều đó không có nghĩa là sẽ phó mặc cho họ khai thác thiên nhiên bừa bãi và để cho họ bất chấp quyền lợi sống còn của những dân cư lân bang trong cùng hệ sinh thái. Đối với một dòng sông quốc tế và thiêng liêng như Mekong, tất cả lợi hại phải được phổ biến công khai và gía trị phải thẩm định trên căn bản toàn thể lưu vực.
Dân cư của Cam Bốt và Việt Nam vẫn phải nhờ vào những cánh rừng ngập nước theo mùa nơi cá trở về sinh sản hàng năm để bắt lấy, đó là nguồn thực phẩm protein chính yếu vẫn nuôi sống họ. Họ vẫn cần nhiều nước để trồng lúa, và lũ lụt dể chống acid, chống nhiễm mặn và cần phù sa để bảo vệ duyên hải khỏi nạn sói mòn.
Nhà hải dương học TS Michael Rozengurt đã điều trần tại Quốc Hội Ottawa vào năm 1994 rằng mức độ điều hòa (hay ngăn chận) lưu lượng tối đa của một dòng sông là 25% nếu muốn ngư sinh không bị hủy hoại [13]. Như thế, sự ngăn chận 53% nước sông tại Trung Quốc và 67% tại Lào chắn chắn sẽ đi đến sự hủy hoại vĩnh viễn và hoàn toàn chế độ thủy vận và ngư sinh hiện thời của sông Mekong.
Nếu tất cả các dự án khai thác Mekong hoàn tất, 75% tổng số phù sa của Mekong sẽ bị ngăn lại ở hồ chứa, 126 BCM nước sông sẽ bị giữ lại thượng nguồn, gần 9 BCM sẽ bị chuyển ra tại Thái, toàn bộ nền ngư nghiệp tại Biển Hồ Tonle Sap và Cửu Long sẽ không còn nữa, cả Châu Thổ Mekong sẽ thành một cánh đồng chua, nước ngầm chỉ còn là những dòng sông mặn, và duyên hải sẽ rã tan dần trước sóng vỗ của biển Đông. Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ đã đánh mất nền ngư nghiệp Châu Thổ sông Colorado, Ai Cập đã mất Châu Thổ sông Nile, Mekong là một dòng sông lớn cuối cùng ít bị chặn hãm và có thể là dòng sông lớn đầu tiên con người giữ được để khỏi rơi vào số phận này trên mặt địa cầu. Vì thế, nhiệm vụ bảo vệ Mekong không phải chỉ là của dân cư Châu Thổ, mà còn là của cả Lưu Vực (DX : khu vực) và cả thế giới.
Dân cư lưu vực Mekong đã phải gánh chịu liên tục những tai họa trầm kha suốt cả Thế Kỷ này rồi. Đáng buồn hơn thế nữa là ngày nay trong hòa bình, "giỏ cá" của dân Cam Bốt và "bát cơm" của dân Việt Nam lại có nguy cơ không còn giữ nguyên được nữa. Nhưng điều này chỉ xảy ra được nếu không ai làm gì trước những nguy cơ cho họ. Chúng ta có một cơ hội lịch sử trước thềm Thế Kỷ 21 : là cùng nhau bảo vệ kho tàng sinh học phong phú thứ hai của địa cầu -sông Mekong- khỏi rơi vào hiểm họa phải trở thành nạn nhân của thủy điện và khai thác nước. Chúng ta còn giúp phần bảo vệ nguồn thực phẩm an toàn và sinh kế cho 100 triệu dân cư nghèo nhất hoàn cầu khỏi cảnh diệt vong. "Tuyên Ngôn Sông Mekong 1999" sẽ là thông điệp mang hy vọng không những cho cho dân cư Mekong mà cho các thế hệ mai sau của cả thế giới.
Tài Liệu Tham Khảo
[1] Steve Rothert: Lessons Unlearned: Damming the Mekong River,
International Rivers Network, Working Paper 6, October 1995. p. 8
[2] Steve Rothert: Lessons Unlearned: Damming the Mekong River,
International Rivers Network, Working Paper 6, October 1995. p. 14
[3] To Phuc Tuong, An Overview of Water Management of Acid Sulphate
Soils, Selected Papers of the HCM City Symposium on Acid Sulphate
Soils, 1992, p. 274
[4] Le Quang Tri et al, Present Land Use as Basis for Land Evaluation
in two Mekong Delta Districts, 1992, p.323
[5] Ropelewski C. F., Reply to Long Pham's Enquiry on Drought in
Vietnam, International Research Institute, 1999
[6] http://irịucsd.edu/forecast/net_asmt/, IRI Net Assessment Forcast
[7] http://www.nnic.noaạgov:80/prodycts/...ummaries/97_3/,
Special Climate Smmary 97/3, NOAA [8] Tuong et al, (Le Quang Tri)
Salinity Intrusion in the Mekong Delta, 1991, p. 23
[9] Nguyen Thanh Tin, Some Characteristics of Water Quality in the
Mekong Delta, p 1
[10] Mai Thanh Truyet et al, Arsenic Pollution: Can it happen to Mekong
Delta, MekongForum, 1999
[11] Pickardt W., Reply to Long Pham's Enquiry on Vietnam Water Data,
UNICEF Hanoi Office, Jan.1999.
[12] Chapman ẸC. and He Daming, Downstream Implications of Chinás
Dams on Lancang Jiang, Monash Asia Institute, 1996 p.18
[13] Riozengurt M., The Demise of Fisheries Due to Large Dams and
Electric Reservoirs, Expert Testimony at Ottawa Congress on June 6,
1994.
[14] Watershed, Volume 4. March - June 1999, p. 10,13 and 30.
[15] Mekong Secretariat, Mekong Mainstream Run-of-River Hydropower,
Executive Summary, 1994
source: http://www.phu-tho.com/community/ind...ay;threadid=94
Ghi chú