Ðề: Cọc BTCT DƯL
Ngày nay, trong thời buổi giá thép phôi tăng, và chắc chắc ngày càng tăng, do các nước có nguồn mỏ sắt siết chặt sản xuất, tăng thuế xuất khẩu (cụ thể là nước Nga Xô Viết, đất nước giàu tài nguyên dầu mỏ, khí đốt, nhôm, và sắt; chỉ mới 10 năm từ chỗ nợ nước ngoài mấy trăm tỷ nay đã có dự trữ ngân sách 130 tỷ USD), vì thế thì xu hướng cọc BTCT, dùng nhiều thép nguyên liệu, sẽ ngày càng đắt hơn cọc BTCT dự ứng lực.
Cụ thể giá bán cọc vuông BTDUL rẻ hơn cọc BTCT cùng loại là điều dễ hiểu, vì chi phí khấu hao cho hệ thống kéo căng của cọc thường không lớn, chỉ bao gồm một hệ thống kích thủy lực đặc chủng (có cần piston dài) là được, hệ thống bệ neo thì cố định xuống nền.
Khi chế tạo, người ta neo 4 thanh thép dự ứng lực vào một đầu, còn đầu kia dùng kích kéo căng, chiều dài từ điểm neo đến điểm kéo có thể tối 120m, trên đoạn đó người ta ốp ván khuôn rồi đổ từng khúc cọc 12m (khi sản xuất cấu kiện dầm dự ứng lực loại nhỏ cũng làm tương tự). Đây là cách ở Thái-land. Còn ở Việt Nam; BT620, Phanvu, BCC, thì người ta đổ từng đốt một, mỗi cách có một ưu nhược điểm riêng.
Về mặt khả năng chịu lực và cả về quan điểm kinh tế, đóng cọc BTDUL đều tốt hơn cọc thường. Nhưng vì các đơn vị thiết kế của ta, không mấy ai từ đầu đã thiết kế cọc BTDUL, nên người thi công cũng phải dùng cọc thường. Cọc thường do các cơ sở sản xuất có giá thành thấp hơn các nhà máy lớn như BT620, PhanVu, BCC, vv. và họ thường có dàn đóng đi kèm, giá cả thuận lợi, nhanh gọn.
Mặt khác, cùng sản xuất tại nhà máy thì cọc BTDUL rẻ hơn cọc BTCT, tuy nhiên nếu cọc BTCT được sản xuất ngay tại công trường thì lại rẻ hơn cọc BTDUL sản xuất tại xưởng, nhà thầu thường chọn phương án tự sản xuất để tiết kiệm tiền thuê nhân công. Ngoài ra khi đúc tại công trường, hay đúc cọc BTCT thường, ta có thể tùy ý quyết định chiều dài cọc cho phù hợp điều kiện địa chất, điều này đối với cọc BTDUL thì khó khăn hơn, tuy nhiên không phải là không làm được nếu có thông tin đặt hàng sớm.
Về mặt kỹ thuật, dù cọc BTCT hay BTDUL thì chiều dài cọc thuận lợi cho việc thi công và vận chuyển cũng chỉ là 12m. Nếu đúc cọc đảm bảo thì cọc BTDUL có khả năng chịu uốn tốt hơn, thuận lợi cho việc vận chuyển và đóng cọc, còn về mặt chịu tải trọng thẳng đứng của công trình thì hai loại cọc này đều như nhau, Pvật liệu bao giờ cũng lớn hơn Pđất nền.
Thôi chào các bác, các anh em.
Nguyên văn bởi quynhnt
Cụ thể giá bán cọc vuông BTDUL rẻ hơn cọc BTCT cùng loại là điều dễ hiểu, vì chi phí khấu hao cho hệ thống kéo căng của cọc thường không lớn, chỉ bao gồm một hệ thống kích thủy lực đặc chủng (có cần piston dài) là được, hệ thống bệ neo thì cố định xuống nền.
Khi chế tạo, người ta neo 4 thanh thép dự ứng lực vào một đầu, còn đầu kia dùng kích kéo căng, chiều dài từ điểm neo đến điểm kéo có thể tối 120m, trên đoạn đó người ta ốp ván khuôn rồi đổ từng khúc cọc 12m (khi sản xuất cấu kiện dầm dự ứng lực loại nhỏ cũng làm tương tự). Đây là cách ở Thái-land. Còn ở Việt Nam; BT620, Phanvu, BCC, thì người ta đổ từng đốt một, mỗi cách có một ưu nhược điểm riêng.
Về mặt khả năng chịu lực và cả về quan điểm kinh tế, đóng cọc BTDUL đều tốt hơn cọc thường. Nhưng vì các đơn vị thiết kế của ta, không mấy ai từ đầu đã thiết kế cọc BTDUL, nên người thi công cũng phải dùng cọc thường. Cọc thường do các cơ sở sản xuất có giá thành thấp hơn các nhà máy lớn như BT620, PhanVu, BCC, vv. và họ thường có dàn đóng đi kèm, giá cả thuận lợi, nhanh gọn.
Mặt khác, cùng sản xuất tại nhà máy thì cọc BTDUL rẻ hơn cọc BTCT, tuy nhiên nếu cọc BTCT được sản xuất ngay tại công trường thì lại rẻ hơn cọc BTDUL sản xuất tại xưởng, nhà thầu thường chọn phương án tự sản xuất để tiết kiệm tiền thuê nhân công. Ngoài ra khi đúc tại công trường, hay đúc cọc BTCT thường, ta có thể tùy ý quyết định chiều dài cọc cho phù hợp điều kiện địa chất, điều này đối với cọc BTDUL thì khó khăn hơn, tuy nhiên không phải là không làm được nếu có thông tin đặt hàng sớm.
Về mặt kỹ thuật, dù cọc BTCT hay BTDUL thì chiều dài cọc thuận lợi cho việc thi công và vận chuyển cũng chỉ là 12m. Nếu đúc cọc đảm bảo thì cọc BTDUL có khả năng chịu uốn tốt hơn, thuận lợi cho việc vận chuyển và đóng cọc, còn về mặt chịu tải trọng thẳng đứng của công trình thì hai loại cọc này đều như nhau, Pvật liệu bao giờ cũng lớn hơn Pđất nền.
Thôi chào các bác, các anh em.
Ghi chú